Trong quá trình dùng
thuốc, một điều đáng lo ngại nhất là thuốc gây hại cho dạ dày, thể hiện dưới
nhiều mức độ tổn thương. Nguy hiểm nhất là gặp các tai biến nặng như loét dạ
dày, xuất huyết dạ dày, thủng dạ dày... Chúng ta cần biết để đề phòng và xử lý kịp
thời.
Viêm loét, xuất huyết dạ
dày là tác dụng phụ rất hay gặp với các mức độ khác nhau: cảm giác đầy bụng,
nóng rát vùng thượng vị, viêm loét dạ dày tá tràng; chảy máu, thủng dạ dày,
hành tá tràng. Tác dụng phụ xuất hiện cả khi dùng đường uống hoặc đường tiêm. Sở
dĩ, tác dụng phụ này hay gặp nhất do một mặt thuốc gây tổn thương trực tiếp
niêm mạc dạ dày, mặt khác nó làm giảm quá trình sản xuất chất nhầy tạo điều
kiện cho acid và pepsin của dịch vị gây tổn thương niêm mạc. Khi dùng đường
uống, thuốc sẽ gây loét theo 2 cơ chế: kích ứng trực tiếp dạ dày và do giảm
chất nhầy. Còn nếu dùng thuốc với các đường dùng khác, thuốc chỉ gây loét theo
cơ chế làm giảm chất nhày hoặc gây tăng tiết dịch vị. Dùng thuốc theo đường
uống tác dụng gây loét sẽ tăng lên rất nhiều trong khi đuờng uống lại là đường
dùng phổ biến.
Để hạn chế tác hại của một số loại thuốc trên
đường tiêu hóa, phải uống thuốc lúc no.
Thuốc gây viêm loét,
xuất huyết dạ dày
Có nhiều loại thuốc có
thể gây tai biến ở dạ dày nếu ta sử dụng không đúng, đáng ngại hơn cả là các
hormon vỏ thượng thận loại corticoid (có rất nhiều loại thuốc có corticoid mang
những tên và biệt dược khác nhau) và các thuốc hạ sốt, giảm đau, chống viêm
không steroid (viết tắt là NSAID) như: aspirin, diclofenac, indomethacin,
piroxicam... Trên thực tế, các thuốc NSAID được dùng rất phổ biến. Đây cũng là
những thuốc được quảng cáo khắp nơi và có mặt rộng rãi ở các nhà thuốc... nên
người dân có thể tự ý mua về dùng. Một trong những tác dụng phụ thường gặp do
nhóm thuốc này gây ra là loét dạ dày - tá tràng, chảy máu dạ dày. Các thuốc
corticoid có thể gây thủng dạ dày. Các NSAID đều có đặc tính chung là các dẫn
chất acid có độ tan kém. Các dẫn chất này khi ở trong môi trường acid của dạ
dày lại rất khó tan, sẽ kết tụ thành từng đám trong dạ dày, tinh thể acid trong
dạ dày sẽ kích thích trực tiếp gây loét.
Một số thuốc giảm đau
dễ gây viêm loét và xuất huyết dạ dày
Aspirin: Đây là thuốc hay dùng nhất trong nhóm
dẫn xuất của acid salicylic. Aspirin có tác dụng giảm đau tốt nên được nhiều
người tín nhiệm để uống khi bị sốt cao, nhức đầu, đau răng, đau người, thấp
khớp cấp và mạn. Ngoài tác dụng hạ sốt và giảm đau, chống viêm còn có tác dụng
chống kết tập tiểu cầu, vì vậy thuốc làm giảm quá trình đông máu. Tuy nhiên,
đây cũng là thuốc nguy cơ rất cao gây viêm loét dạ dày tá tràng. Lạm dụng thuốc
có thể gây xuất huyết dạ dày, thậm chí thủng dạ dày.
Ibuprofen: Có trong thành phần của nhiều loại thuốc
giảm đau như alaxan, antidol và thường được kết hợp với paracetamol (thuộc nhóm
thuốc giảm đau, hạ sốt) có thể giảm cơn đau nhanh chóng do ức chế sự tổng hợp
hay phóng thích prostaglandin. Tuy nhiên, thuốc thường gây ra tác dụng phụ về
đường tiêu hóa. Có tới 5 - 15% người bệnh dùng ibuprofen gặp hiện tượng: chướng
bụng, đau bụng, buồn nôn, nôn, nặng hơn là loét dạ dày tiến triển, chảy máu dạ
dày, ruột...
Diclofenac (voltaren,
diclofen): Là thuốc giảm
đau, chống viêm thường dùng để điều trị các chứng viêm đa khớp, thoái hóa khớp,
thoái hóa cột sống, đau lưng... Đây cũng là một trong những thuốc gây loét dạ
dày - tá tràng - ruột khá nguy hiểm nếu lạm dụng thuốc.
Indomethacin: Có tác dụng chống viêm, giảm đau, dùng
để điều trị đau lưng, viêm dây thần kinh, viêm khớp mạn tính... Lạm dụng
thuốc có thể gây viêm loét dạ dày - tá tràng, ruột, rối loạn đông máu.
Các thuốc meloxicam
(mobic, M-cam, camrox); pirocicam (fendene); tenocicam (ticoltil) được dùng
trong điều trị viêm xương khớp, thoái hóa khớp, viêm cột sống cứng khớp. Tuy
phản ứng có hại gây loét và xuất huyết đường tiêu hóa ít gặp hơn nhưng vẫn là
nhóm thuốc có nguy cơ cao gây chảy máu đường tiêu hóa nếu bị lạm dụng, dùng
liều cao kéo dài.
Hạn chế bằng cách nào?
Để khắc phục tác dụng
phụ gây loét đường tiêu hóa, các nhà sản xuất đã bào chế ra dạng đặc biệt, đó
là viên bao tan trong ruột. Ví dụ như viên aspirin pH8 chẳng hạn. Với dạng bào
chế này, thuốc không tan trong dạ dày mà tan ở ruột. Vì vậy sẽ làm giảm tác
dụng phụ, tuy nhiên thuốc vẫn gây loét theo cơ chế làm giảm chất nhầy. Ngoài
ra, dạng viên sủi hay gói bột hòa tan sẽ giúp thuốc được phân tán đều mà không
tích tụ thành đám trong dạ dày giúp hạn chế cơ chế loét trực tiếp.
Để tránh những rối
loạn về tiêu hóa, nên uống thuốc vào lúc no, sau khi ăn và uống với một cốc
nước (khoảng 200 - 250ml). Cần đặc biệt chú ý đây là loại thuốc thường dùng để
điều trị đau cấp tính, chỉ nên dùng trong thời gian ngắn mà không nên kéo dài.
Không tự ý dùng thuốc này nếu không có chỉ định. Nếu bị khó chịu ở dạ dày, nên
uống thuốc cùng với thức ăn hoặc ngay sau ăn.
DS. Thanh Hoài
Bài liên quan:
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét