Sỏi
tiết niệu là nguyên nhân thứ ba gây suy thận mạn tính. Thống kê trung bình tại
bệnh viện Bạch Mai, khoa tiết niệu Việt Đức, Học viện Quân y cho thấy tỷ lệ tái
phát của sỏi thận là từ 10% đến 50%.
Sỏi tiết niệu là những khối tinh thể kết tụ một số thành
phần trong nước tiểu ở đường niệu trên (chủ yếu từ canxi). Bệnh thường gặp ở
lứa tuổi 20 - 60, trong đó, nam dễ mắc bệnh hơn nữ. Bệnh thường khởi phát
từ chế độ ăn uống, nguồn nước uống, sinh hoạt không hợp lý. Ví dụ như: uống quá
ít nước, ăn quá nhiều thức ăn giàu protein, đường, natri, oxalat... hoặc do
nhiễm khuẩn đường niệu; mất mồ hôi nhiều, mắc bệnh tiêu chảy mạn... Bệnh cũng
do các dị tật bẩm sinh làm ứ đọng nước tiểu như: bệnh Cacchi-Ricci, hẹp khúc
nối bể thận - niệu quản, thận đa nang, sa niệu quản, niệu quản đôi...
Cơn
đau của bệnh này thường đến đột ngột, rất dữ dội và chỉ ở một bên. Đau bắt đầu
ở vùng thắt lưng rồi lan sang phía bụng, nách và các cơ quan sinh dục. Có lúc
đau giảm đi nhưng sau đó lại xuất hiện cơn khác dữ dội hơn. Bệnh nhân có thể
nôn, buồn nôn, ra mồ hôi, mạch nhanh nhưng không sốt, buồn tiểu nhưng lại không
cảm thấy dễ chịu sau khi tiểu.
Để phòng bệnh, bạn cần bắt đầu từ nguyên nhân gây bệnh mà
chủ yếu bắt nguồn từ lối sống, thói quen ăn uống và sinh hoạt. Bạn cần hạn chế
chất canxi, protein, oxalat, purin, thức ăn mặn... Bạn nên uống từ 2 đến 3 lít
nước mỗi ngày, bảo đảm bài tiết 1,5 lít nước tiểu hằng ngày và nên dành thời
gian vận động; không nên ăn quá nhiều đậu nành vì nó chứa nhiều oxalat, ăn quá
nhiều sẽ khiến canxi và oxalat kết dính thành khối gây ra sỏi
thận.
Sỏi canxi: giới hạn lượng canxi đưa vào lớn hơn 600mg mỗi
ngày, gia tăng chất xơ (từ rau và trái cây), không nên dùng các loại nước
"cứng".
Sỏi oxalat: không ăn măng tây, đậu cô ve, củ cải đường,
đào lộn hột, rau diếp, đậu bắp, nho, mận, khoai lang và trà; cảnh giác với thức
ăn chua hay các viên vitamin C liều cao.
Sỏi axit uric: các sỏi này liên quan đến chuyển hóa purin
và đôi khi là một biến chứng của bệnh gút, nên giảm ăn những chất có purin
(thức ăn quá nhiều đạm).
Điều trị: nên sử dụng liệu pháp đến từ thiên nhiên.
Điều trị nội khoa (không cần mổ) được áp dụng đối với sỏi
không gây bế tắc, không gây triệu chứng, không có nhiễm trùng. Sỏi nhỏ hơn
4-5mm có thể tự ra theo dòng nước tiểu, bệnh nhân được khuyên nên uống nhiều
nước. Sỏi niệu quản có kích thước nhỏ hơn 4mm thì 90% sẽ tự tiểu ra. Sỏi
lớn hơn 6mm thì khả năng tiểu ra sỏi chỉ khoảng 20%.
Sỏi đường tiết niệu gây nhiễm trùng hoặc bế tắc có chỉ
định can thiệp ngoại khoa càng sớm càng tốt. Tùy kích thước và vị trí của sỏi
trên đường tiết niệu và đặc điểm bệnh nhân mà bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp
điều trị khác nhau như: mổ mở, tán sỏi ngoài cơ thể (ESWL), phẫu thuật nội soi
lấy sỏi qua da (PCNL), nội soi bàng quang niệu quản tán sỏi, phẫu thuật nội soi
sau phúc mạc lấy sỏi niệu quản. Mỗi phương pháp có những chỉ định cũng như
ưu nhược điểm khác nhau.
Xu hướng trở về với thiên nhiên trong chữa trị bệnh đã và
đang được sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới bởi giá thành điều trị thấp,
tránh được các biến chứng xấu của phẫu thuật, giảm tác dụng phụ so với các
thuốc tổng hợp nhưng vẫn đạt hiệu quả cao.
Sỏi tiết niệu là nguyên nhân thứ ba gây suy thận mạn
tính. Thống kê trung bình tại bệnh viện Bạch Mai, khoa tiết niệu Việt Đức, Học viện
Quân y cho thấy tỷ lệ tái phát của sỏi thận là
từ 10% đến 50%.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét